Thương
Tiếc Người Phi Công Trẻ
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã khép lại 40 năm qua, nhưng những dư âm tang thương
từ “Tháng Tư Đen” vẫn còn là nỗi đau vang vọng trong lòng chúng ta, trong lòng
từng gia đình, nhất là những gia đình có những người thân yêu đã một thời khoác
áo kaki…
Gia đình tôi cũng không
ngoại lệ. Anh, em trai hầu hết là quân nhân. Chồng tôi, Hoàng Ngọc Thái Đại Úy
Công Binh, anh Hai Thiếu Tá Pháo Binh, anh Ba Chiến Tranh Tâm Lý, em thứ Năm
Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, em thứ Sáu Trung Sĩ Pháo Binh, và em thứ
Bảy Thiếu Úy Không Quân. Tất cả những quân nhân trong gia đình đã chiến đấu hào
hùng vì lý tưởng, chính nghĩa Quốc Gia, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho một Tổ
Quốc Tự Do toàn vẹn.
Năm 1967, Em tôi,
Hồ Xuân Đạt, khi vừa đậu xong bằng tú tài I, dù vẫn được hoãn dich vì lý do học
vấn, vẫn tình nguyện lên đường theo tiếng gọi của non sông. Em đã xếp áo thư
sinh, Từ giã học đường, gia đình, bạn bè…gởi lại sau lưng những kỷ niệm, những
ước mơ thật đẹp, thật hồn nhiên của tuổi mới lớn.
Năm 1968, sau khi tốt
nghiệp trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, em được chọn vào ngành Không Quân và
được gửi đi Hoa Kỳ thụ huấn khóa đào tạo phi công trực thăng (Helicopter) tại
tiểu bang Texas Hoa Kỳ.
Năm 1970, khi tốt
nghiệp em về lại Việt Nam, phục vụ tại phi trường Biên Hòa thuộc Sư Đoàn III
Không Quân QLVNCH. Ngay chính nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Bằng
Lái Máy Bay
Hai năm sau,
vì nhu cầu chiến trường, em nhận lệnh thuyên chuyển ra vùng I chiến thuật, công
tác tại phi trường Đà Nẵng rất gần với đơn vị của chồng tôi. Khi ấy, chồng tôi,
đại úy Hoàng Ngọc Thái, đại đội trưởng đại đội Biệt Lập 127 Cầu Nổi.
Hàng tuần vào những ngày nghỉ, em hay về nhà tôi
chơi trong khu cư xá Phước Tường Đà Nẵng. Chị em có nhiều dịp gần gũi nhau hơn.
Em hay kể cho tôi nghe về những chuyến bay tác chiến, những phi vụ tiếp tế và tải
thương tại chiến trường về đêm đầy những hiểm nguy mà em tham dự. Về những người
lính can đảm đã anh dũng chiến đấu, đã hy sinh bỏ mình cho tổ quốc.
Chiến tranh vẫn tiếp diễn và em tôi,
vẫn hằng đêm thực hiện những phi vụ hiểm nguy để yểm trợ, sát cánh cùng chiến hữu
các đơn vị để chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.
Tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Tin tức địch quân
sắp chiếm Đà Nẵng làm dân chúng xôn xao, hỗn loạn tìm đường thoát chạy. Trong
khu cư xá sĩ quan của Liên Đoàn 8 Công Binh, tôi không làm sao liên lạc được
với chồng vì anh đang phải cấm trại tại đơn vị. Vừa lo lắng cho chồng, vừa lo
cho Đạt em tôi, vừa lo cho chính bản thân mình và các con. Sau này nghĩ lại, thời
gian ấy thật sự đáng sợ và kinh khủng nhất trong đời tôi.
Bỗng nhiên một buổi sáng trước ngày Đà Nẵng thất thủ, Đạt lái trực thăng đáp xuống
khoảng sân rộng trước nhà tôi ở khu cư xá sĩ quan Công Binh Phước Tường. Khi bước
vào nhà gặp tôi, trông em có vẻ căng thẳng và lo lắng. Em nói “Chị và các cháu
chuẩn bi sẵn sàng. Em sẽ trở lại đón vào phi trường tìm đường về Sàigòn càng sớm
càng tốt”. Nói xong, em quay lưng bước vội về chiếc trực thăng vẫn còn đang
nổ máy ngoài sân. Trước khi cất cánh, em nhìn tôi rồi gượng nở nụ cười qua
khung cửa gió của con tàu.. Tôi không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi
nhìn thấy Đạt. Cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nụ cười của em tôi. Một nụ
cười buồn, rất buồn. Bởi, em chẳng bao giờ trở lại đón tôi như lời đã hứa.
Ngày 29/03/1975 Đà Nẵng thất thủ.
Ngày
05/05/1975 với nhiều vất vả, khổ cực, tôi một mình dìu dắt bốn đứa con nheo nhóc
từ Đà Nẵng về nhà mẹ ở Sàigòn. Về đến nhà Mẹ thì mới hay Thái, ông xã tôi,
đã có mặt ở nhà Mẹ cả tháng, vì nghĩ rằng chú các cháu đưa vợ con vào phi
trường về Sài Gòn trước nên trong lúc thất thủ anh cũng vất vả tìm cách về Sài
Gòn, anh có ngờ đâu vợ con anh còn kẹt lại Đà Nẵng. Bỏ ăn, bỏ ngủ với thân hình
tiều tụy, vì nhớ thương vợ con, anh đã không từ một xác trôi nổi nào được tấp
vào bất cứ bãi biển, bến tàu nào anh cũng tìm đến nhìn mặt, anh lang thang khắp
nơi như người mất hồn.Tôi cũng không gặp được anh vì anh đã đi ngược ra Đà Nẵng
tìm vợ con sau một tháng trời mất liên lạc. Giữa đường anh bị bắt, bị bịt mắt
còng tay ra sau lưng, bị dẫn độ đi ngày đêm trong rừng sâu, và từ đó anh bặt
tăm, một lần nữa tôi lại đi tìm chồng, không biết địch có để cho anh sống hay
chúng đã giết anh rồi…Nhưng may mắn anh còn sống. Tôi đã gặp anh và anh
đang bị tù mãi tận trong núi Kỳ Sơn Quãng Nam…
Ngày tháng trôi qua cả nhà tôi lại tiếp tục đi tìm em trai Đạt, hết trại tập
trung này đến trại cải tạo kia, vẫn không nơi nào có tên em, cứ tưởng Đạt bay
đi được ra khỏi Việt Nam và đang tị nạn ở Hoa Kỳ, Canada hay một nước nào đó
trên thế giới, không ngờ đến tháng 11/1975 một anh quân nhân VNCH
cùng đi trên chuyến bay định mệnh, sau khi máy bay bị bắn rớt, anh bị bắt đi tù
gần 8 tháng về kể lại:
Máy bay cất cánh vội vàng với số lượng quá tải, cũng cố cất cánh bay cao rời
khỏi phi trường Đà Nẵng với bao nhiêu người trên chuyến bay định mệnh trong
những giờ phút mà đạn pháo quân thù bay ra xối xả, Đạt có ngờ đâu đó là phi vụ
cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…
Khi phi cơ bay qua vùng Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định thì bị một loạt mưa đạn
AK của địch từ phía dưới bắn lên nhắm ngay buồng lái, Đạt bị trúng thương,
người phi công nữa vào thay cũng bị bắn, trong lúc Đạt bị bắn trọng thương anh
lính đã chăm sóc, Đạt biết mình không thể sống, nên đọc địa chỉ nhờ nhắn tin về
nhà, cả hai phi công đều tử nạn, chiếc trực thăng không người lái, bay chúi
xuống ruộng, sát chân núi. Những người trên chuyến bay còn sống đã bị địch bắt…
Vẫn giữ lời, sau khi ra tù anh quân nhân tốt bụng, đã tìm đến tận nhà báo tin về chiếc phi cơ của Đạt bị địch
bắn và rơi xuống vùng Bồng Sơn (Bình Định) ngày 27/03/1975 như tôi đã kể trên.
Và chỉ rõ địa điểm máy bay lâm nạn.
Quá bất ngờ lẫn đau sót và vô cùng bối rối, và cũng vì anh lính vội vã về gia
đình nên anh lính chỉ báo tin cho biết và đi ngay, cả nhà tôi nghe tin sét
đánh, đã lặng người, không còn nghe thấy gì, không còn nhớ tên anh lính cũng
như địa chỉ hay quê quán nơi anh cư ngụ…
Theo lời anh lính chỉ đường, tôi và Má tôi đi xe đò ra Bồng Sơn, mặc dù không
rành đường, nhưng khi xe chạy gần đến nơi tôi linh tính như có ai dẫn đường,
tôi kêu xe ngừng lại đúng ngay địa điểm chiếc máy bay vẫn còn nằm dưới đám
ruộng tuốt trong xa, gần chân núi, chỉ cần sơ ý xe chạy lướt qua, coi như không
thể tìm thấy.
Xuống xe quan sát, tôi nhìn thấy ngay nấm mộ đất dưới bờ ruộng, sát lề đường
QL.I. ,không mộ bia. Hai bên đường là ruộng, xa xa mới có một căn nhà. Má và
tôi tìm đến căn nhà gần nhất để hỏi thăm, cũng may mắn chính ông chủ căn nhà là
một trong số những người dân ở đó chôn em tôi khi bị nạn giữa đường mà không có
thân nhân… Mộ em nằm cách nhà ông khoảng 50 m. Thuộc thôn Vân Cang, Xã Hoài Đức
Huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định.
Ông chủ nhà rất tử tế, khi được biết chúng tôi đi tìm mộ người thân, ông mời Má
và tôi ở lại nhà ông,vì khi tìm đến nhà ông trời cũng đã chạng vạng. Một căn
nhà tường xây thật lớn, coi như ông là người khá giả nhất vùng đó, tắm rửa
xong, ông mời dùng cơm, một bửa cơm thịnh soạn, thật cảm động, ông kể:
Khi
máy bay rớt ông là người đứng ra chôn cất em tôi và một phi công nữa cùng bị
nạn chung trên chuyến bay này. Nhưng anh phi công đó được gia đình biết sớm nên
đã di dời về quê. Đêm đó ông lại nhường phòng ngủ của ông cho hai má con tôi
ngủ, cái đặt biệt nữa là cái bóp của Đạt, tôi đã nhận ra ngay vì khi em tôi du
học Mỹ em mua về sử dụng tôi có biết cái bóp da có hình đầu con Ngựa được đóng
nổi. Trong bóp lại còn có tấm hình em mặc bộ đồ bay, tôi mang ra và xin phép
ông được nhận lại kỷ vật…Ông rất vui vẻ. Ông cho biết khi ông chôn cất em tôi
ông giữ lại kỷ vật này, ông vẫn để trên đầu giường (giường hộp) của ông.
Sáng hôm sau, Má tôi nhờ ông làm dùm tấm bia bằng gổ cắm trên mộ em tôi. Vì mộ
mới nên không thể hốt cốt mang về. Và lần gặp này gia đình tôi rất mang ơn ông,
mỗi khi có dịp vào Sài Gòn ông và các con ông đều ghé nhà chơi.
Năm năm sau Má tôi trở ra Bình Định hốt cốt em về và hỏa thiêu, sau đó gửi cốt
vào chùa, Đạt mất khi em mới 25 tuổi.
Cái
kỷ niệm đau thương, buồn rầu ấy cứ mãi đeo đẳng theo tôi đến tận bây giờ, trong
trí tôi lúc nào cũng hình dung cái chết tức tưởi, đau đớn của em mình và trong
lòng tôi như có một vết thương chưa lành hẵn…
Bài viết này, tôi ôn lại và ghi lại những gì tôi còn nhớ, những gì tôi được
biết. Tôi chỉ còn nhớ và chắc chắn là không đầy đủ chi tiết.
Đã
40 năm qua, thời gian cứ trôi, bao kỷ niệm cay đắng vẫn còn, càng cố quên
hình ảnh đứa em thân thương đó tôi lại càng cứ nhớ, càng yên lặng là lúc
hồn tôi miên man nhớ về quá khứ, cái quá khứ đau xót mà gia đình tôi nhận lấy.
Có
nhiều kỷ niệm, kỷ niệm vui buồn, nhiều thứ để quên, nhưng nỗi đau mất mát này
không thể nào phai nhạt. Đạt là đứa em gần gũi tôi nhiều nhất.
Chiến
tranh qua đi, là một nỗi đau hằn sâu vết thương lòng cho những người còn lại,
sau cuộc chiến là sự mất mát tang thương, bao nhiêu người con yêu của tổ quốc
đã xong nợ xương máu không trở về, bao nhiêu quả phụ chít khăn tang khi mái tóc
còn xanh, trở thành góa phụ ngây thơ với nỗi buồn và sự mất mát to lớn.
Không có người Mẹ, người vợ nào trên thế giới lại không tan nát trái tim, trước
sự mất mát quá lớn này, sự ra đi vĩnh viễn của những người con, những người
chồng, người cha của mình “Vị Quốc Vong Thân” ! Đã hy sinh một cách âm thầm.
“Tổ Quốc Không Gian”, vùng mây trời mênh mông bao la đã vương giọt máu đào của
em tôi, của Đạt, của những người anh hùng nghiêng cánh sắt. Cố bảo vệ, gìn giữ quê
hương, đã đem sinh mạng đổi lấy hai chữ “Tự Do”.
Hồ Xuân Đạt một phi công trẻ của QLVNCH, đã chết vì quê hương, dân tộc. Là
người thanh niên Biên Hòa, lớn lên trên dãy giang sơn hoa gấm thân yêu hình chữ
“S”, một đất nước hiền hòa đầy tình dân tộc được dựng xây bằng xương máu của
các bậc tiền nhân bốn ngàn năm văn hiến, sẽ mãi mãi làm trang sử QLVNCH đời đời
sống dậy và người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ chết.
Xin chân thành biết ơn những anh em Thương Phế Binh VNCH đã hy sinh một phần
thân thể cho quê hương, cho chúng tôi còn được nguyên vẹn.
Xin
chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người
nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì quốc nạn 30/04/1975 và
những người ngã gục trong lao tù cộng sản. Những Anh Hùng Bất Tử trong dòng
lịch sử Việt Nam.
Hoàng Ánh Nguyệt
(San Jose 2015)
No comments:
Post a Comment