TRĂNG VIỄN XỨ (HOÀNG ÁNH NGUYỆT

TRĂNG VIỄN XỨ

Trăng treo ảo ảnh biên đình

Trăng soi lữ khách độc hành viễn du

Trăng thề hẹn bến tương tư

Dẫu tàn phai vẫn thiên thu đợi người

(Dương Quân)


Cám ơn các thân hữu đã ghé vào ngôi nhà đơn sơ của HOÀNG ÁNH NGUYỆT






Sunday, November 29, 2015

CUỐI NĂM THƠ DƯƠNG QUÂN











 
       Xôn xao gió lạnh lại về
Bước chân Tháng Chạp bốn bề giá băng .....
       Muộn màng tờ lịch cuối năm
Lặng nghe thế sự thăng trầm quẩn quanh.
 
       Nhớ xưa dài buổi tương tranh
Khóc hồn tử sĩ bao vành khăn tang
       Nhớ ngày bỏ cuộc dở dang
Nấm xương tù gởi trăng ngàn núi xa.
 
       Nhớ thời vượt biển phong ba
Bồng bềnh thân xác, máu hòa sóng sâu
       Nhớ ai giã biệt qua cầu
Vết thương để lại còn đau đoạn trường.
 
       Cuối năm vời nhớ cố hương
Ngổn ngang phố thị, ruộng vườn tả tơi
       Phường tuồng diễn lũ đười ươi
Cúc cung Hán tặc học đòi vong nô.
 
       Cuối năm sương tuyết mịt mờ
Thân tàn đất khách, vần thơ lạc loài
       Đã đành khánh tận đời trai
Vẫn cầu mong chút tương lai cho người.
 
 
             Dương Quân
               12.2011
 

Saturday, November 28, 2015

TRANG WEB VƯỢT TƯỜNG LỬA ĐĂNG BÀI THƯƠNG TIẾC NGƯỜI PHI CÔNG TRẺ

QLVNCH: Thương Tiếc Người Phi Công Trẻ – Hoàng Ánh Nguyệt

 

  •  
  •  
  •  

 
Thương Tiếc Người Phi Công Trẻ – Hoàng Ánh Nguyệt
Inline image 1
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã khép lại 40 năm qua, nhưng những dư âm tang thương từ “Tháng Tư Đen” vẫn còn là nỗi đau vang vọng trong lòng chúng ta, trong lòng từng gia đình, nhất là những gia đình có những người thân yêu đã một thời khoác áo Kaki…
Gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Anh, em trai hầu hết là Quân nhân. Chồng tôi, Hoàng Ngọc Thái, Đại úy Công Binh, anh Hai Thiếu Tá Pháo Binh, anh Ba Chiến Tranh Tâm Lý, em thứ Năm Trung Tá, Tiểu Đoàn Trưởng, Công Binh, em thứ Sáu Trung Sĩ Pháo Binh, và em thứ Bảy Thiếu Úy Không Quân. Tất cả những Quân nhân trong gia đình đã chiến đấu hào hùng vì lý tưởng, chính nghĩa Quốc Gia, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho một Tổ Quốc Tự Do toàn vẹn.


Năm 1967, Em tôi, Hồ Xuân Đạt, khi vừa đậu xong bằng Tú tài I, dù vẫn được hoãn dịch vì lý do học vấn, vẫn tình nguyện lên đường theo tiếng gọi của non sông. Em đã xếp áo thư sinh, Từ giã học đường, gia đình, bạn bè… gởi lại sau lưng những kỷ niệm, những ước mơ thật đẹp, thật hồn nhiên của tuổi mới lớn.
Năm 1968, sau khi tốt nghiệp trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, em được chọn vào ngành Không Quân và được gửi đi Hoa Kỳ thụ huấn khóa đào tạo phi công trực thăng (Helicopter) tại Tiểu bang Texas Hoa Kỳ.
Năm 1970, khi tốt nghiệp em về lại Việt Nam, phục vụ tại phi trường Biên Hòa, thuộc Sư Đoàn III Không Quân QLVNCH. Ngay chính nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Hai năm sau, vì nhu cầu chiến trường, em nhận lệnh thuyên chuyển ra Vùng I Chiến thuật, công tác tại phi trường Đà Nẵng rất gần với đơn vị của chồng tôi. Khi ấy, chồng tôi, Đại úy Hoàng Ngọc Thái, Đại đội trưởng đại đội Biệt Lập 127 Cầu Nổi.
Hàng tuần vào những ngày nghỉ, em hay về nhà tôi chơi trong khu Cư xá Phước Tường, Đà Nẵng. Chị em có nhiều dịp gần gũi nhau hơn. Em hay kể cho tôi nghe về những chuyến bay tác chiến, những phi vụ tiếp tế và tải thương tại chiến trường về đêm đầy những hiểm nguy mà em tham dự. Về những người lính can đảm đã anh dũng chiến đấu, đã hy sinh bỏ mình cho Tổ quốc.
Chiến tranh vẫn tiếp diễn và em tôi, vẫn hằng đêm thực hiện những phi vụ hiểm nguy để yểm trợ, sát cánh cùng chiến hữu các đơn vị để chiến đấu bảo vệ mảnh đất Quê hương.
Tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Tin tức địch quân sắp chiếm Đà Nẵng làm dân chúng xôn xao, hỗn loạn tìm đường thoát chạy. Trong khu Cư xá Sĩ quan của Liên Đoàn 8 Công Binh, tôi không làm sao liên lạc được với chồng vì anh đang phải cấm trại tại đơn vị. Vừa lo lắng cho chồng, vừa lo cho Đạt em tôi, vừa lo cho chính bản thân mình và các con. Sau này nghĩ lại, thời gian ấy thật sự đáng sợ và kinh khủng nhất trong đời tôi.
Bỗng nhiên một buổi sáng trước ngày Đà Nẵng thất thủ, Đạt lái trực thăng đáp xuống khoảng sân rộng trước nhà tôi ở khu Cư xá Sĩ quan Công Binh Phước Tường. Khi bước vào nhà gặp tôi, trông em có vẻ căng thẳng và lo lắng. Em nói “Chị và các cháu chuẩn bị sẵn sàng. Em sẽ trở lại đón vào phi trường tìm đường về Sàigòn càng sớm càng tốt”. Nói xong, em quay lưng bước vội về chiếc trực thăng vẫn còn đang nổ máy ngoài sân. Trước khi cất cánh, em nhìn tôi rồi gượng nở nụ cười qua khung cửa gió của con tàu… Tôi không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Đạt. Cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nụ cười của em tôi. Một nụ cười buồn, rất buồn. Bởi, em chẳng bao giờ trở lại đón tôi như lời đã hứa.
Ngày 29/03/1975 Đà Nẵng thất thủ.
Ngày 05/05/1975 với nhiều vất vả, khổ cực, tôi một mình dìu dắt bốn đứa con nheo nhóc từ Đà Nẵng về nhà mẹ ở Sàigòn. Về đến nhà Mẹ thì mới hay Thái, ông xã tôi, đã có mặt ở nhà Mẹ cả tháng, vì nghĩ rằng chú các cháu đưa vợ con vào phi trường về Sài Gòn trước nên trong lúc thất thủ anh cũng vất vả tìm cách về Sài Gòn, anh có ngờ đâu vợ con anh còn kẹt lại Đà Nẵng. Bỏ ăn, bỏ ngủ với thân hình tiều tụy, vì nhớ thương vợ con, anh đã không từ một xác trôi nổi nào được tấp vào bất cứ bãi biển, bến tàu nào anh cũng tìm đến nhìn mặt, anh lang thang khắp nơi như người mất hồn. Tôi cũng không gặp được anh vì anh đã đi ngược ra Đà Nẵng tìm vợ con sau một tháng trời mất liên lạc. Giữa đường anh bị bắt, bị bịt mắt còng tay ra sau lưng, bị dẫn độ đi ngày đêm trong rừng sâu, và từ đó anh bặt tăm, một lần nữa tôi lại đi tìm chồng, không biết địch có để cho anh sống hay chúng đã giết anh rồi…Nhưng may mắn anh còn sống. Tôi đã gặp anh và anh đang bị tù mãi tận trong núi Kỳ Sơn, Quảng Nam…
Ngày tháng trôi qua cả nhà tôi lại tiếp tục đi tìm em trai Đạt, hết trại tập trung này đến trại cải tạo kia, vẫn không nơi nào có tên em, cứ tưởng Đạt bay đi được ra khỏi Việt Nam và đang tị nạn ở Hoa Kỳ, Canada hay một nước nào đó trên thế giới, không ngờ đến tháng 11/1975 một anh Quân nhân VNCH cùng đi trên chuyến bay định mệnh, sau khi máy bay bị bắn rớt, anh bị bắt đi tù gần 8 tháng về kể lại :
Máy bay cất cánh vội vàng với số lượng quá tải, cũng cố cất cánh bay cao rời khỏi phi trường Đà Nẵng với bao nhiêu người trên chuyến bay định mệnh trong những giờ phút mà đạn pháo quân thù bay ra xối xả, Đạt có ngờ đâu đó là phi vụ cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…
Khi phi cơ bay qua vùng Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định thì bị một loạt mưa đạn AK của địch từ phía dưới bắn lên nhắm ngay buồng lái, Đạt bị trúng thương, người phi công nữa vào thay cũng bị bắn, trong lúc Đạt bị bắn trọng thương anh lính đã chăm sóc, Đạt biết mình không thể sống, nên đọc địa chỉ nhờ nhắn tin về nhà, cả hai phi công đều tử nạn, chiếc trực thăng không người lái, bay chúi xuống ruộng, sát chân núi. Những người trên chuyến bay còn sống đã bị địch bắt…
Vẫn giữ lời, sau khi ra tù anh Quân nhân tốt bụng, đã tìm đến tận nhà báo tin về chiếc phi cơ của Đạt bị địch bắn và rơi xuống vùng Bồng Sơn (Bình Định) ngày 27/03/1975 như tôi đã kể trên. Và chỉ rõ địa điểm máy bay lâm nạn.
Quá bất ngờ lẫn đau xót và vô cùng bối rối, và cũng vì anh lính vội vã về gia đình nên anh lính chỉ báo tin cho biết và đi ngay, cả nhà tôi nghe tin sét đánh, đã lặng người, không còn nghe thấy gì, không còn nhớ tên anh lính cũng như địa chỉ hay quê quán nơi anh cư ngụ…
Theo lời anh lính chỉ đường, tôi và Má tôi đi xe đò ra Bồng Sơn, mặc dù không rành đường, nhưng khi xe chạy gần đến nơi tôi linh tính như có ai dẫn đường, tôi kêu xe ngừng lại đúng ngay địa điểm chiếc máy bay vẫn còn nằm dưới đám ruộng tuốt trong xa, gần chân núi, chỉ cần sơ ý xe chạy lướt qua, coi như không thể tìm thấy.
Xuống xe quan sát, tôi nhìn thấy ngay nấm mộ đất dưới bờ ruộng, sát lề đường QL.I không mộ bia. Hai bên đường là ruộng, xa xa mới có một căn nhà. Má và tôi tìm đến căn nhà gần nhất để hỏi thăm, cũng may mắn chính ông chủ căn nhà là một trong số những người dân ở đó chôn em tôi khi bị nạn giữa đường mà không có thân nhân… Mộ em nằm cách nhà ông khoảng 50 m. Thuộc thôn Vân Cang, xã Hoài Đức, huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định.
Ông chủ nhà rất tử tế, khi được biết chúng tôi đi tìm mộ người thân, ông mời Má và tôi ở lại nhà ông,vì khi tìm đến nhà ông trời cũng đã chạng vạng. Một căn nhà tường xây thật lớn, coi như ông là người khá giả nhất vùng đó, tắm rửa xong, ông mời dùng cơm, một bữa cơm thịnh soạn, thật cảm động, ông kể :
Khi máy bay rớt ông là người đứng ra chôn cất em tôi và một phi công nữa cùng bị nạn chung trên chuyến bay này. Nhưng anh phi công đó được gia đình biết sớm nên đã di dời về quê. Đêm đó ông lại nhường phòng ngủ của ông cho hai má con tôi ngủ, cái đặt biệt nữa là cái bóp của Đạt, tôi đã nhận ra ngay vì khi em tôi du học Mỹ em mua về sử dụng tôi có biết cái bóp da có hình đầu con Ngựa được đóng nổi. Trong bóp lại còn có tấm hình em mặc bộ đồ bay, tôi mang ra và xin phép ông được nhận lại kỷ vật…Ông rất vui vẻ. Ông cho biết khi ông chôn cất em tôi ông giữ lại kỷ vật này, ông vẫn để trên đầu giường (giường hộp) của ông.
Sáng hôm sau, Má tôi nhờ ông làm dùm tấm bia bằng gỗ cắm trên mộ em tôi. Vì mộ mới nên không thể hốt cốt mang về. Và lần gặp này gia đình tôi rất mang ơn ông, mỗi khi có dịp vào Sài Gòn ông và các con ông đều ghé nhà chơi.
Năm năm sau Má tôi trở ra Bình Định hốt cốt em về và hỏa thiêu, sau đó gửi cốt vào chùa, Đạt mất khi em mới 25 tuổi.
Cái kỷ niệm đau thương, buồn rầu ấy cứ mãi đeo đẳng theo tôi đến tận bây giờ, trong trí tôi lúc nào cũng hình dung cái chết tức tưởi, đau đớn của em mình và trong lòng tôi như có một vết thương chưa lành hẵn…
Bài viết này, tôi ôn lại và ghi lại những gì tôi còn nhớ, những gì tôi được biết. Tôi chỉ còn nhớ và chắc chắn là không đầy đủ chi tiết.
Đã 40 năm qua, thời gian cứ trôi, bao kỷ niệm cay đắng vẫn còn, càng cố quên hình ảnh đứa em thân thương đó tôi lại càng cứ nhớ, càng yên lặng là lúc hồn tôi miên man nhớ về quá khứ, cái quá khứ đau xót mà gia đình tôi nhận lấy.
Có nhiều kỷ niệm, kỷ niệm vui buồn, nhiều thứ để quên, nhưng nỗi đau mất mát này không thể nào phai nhạt. Đạt là đứa em gần gũi tôi nhiều nhất.
Chiến tranh qua đi, là một nỗi đau hằn sâu vết thương lòng cho những người còn lại, sau cuộc chiến là sự mất mát tang thương, bao nhiêu người con yêu của Tổ quốc đã xong nợ xương máu không trở về, bao nhiêu quả phụ chít khăn tang khi mái tóc còn xanh, trở thành góa phụ ngây thơ với nỗi buồn và sự mất mát to lớn.
Không có người Mẹ, người vợ nào trên Thế giới lại không tan nát trái tim, trước sự mất mát quá lớn này, sự ra đi vĩnh viễn của những người con, những người chồng, người cha của mình “Vị Quốc Vong Thân” ! Đã hy sinh một cách âm thầm.
“Tổ Quốc Không Gian”, vùng mây trời mênh mông bao la đã vương giọt máu đào của em tôi, của Đạt, của những người anh hùng nghiêng cánh sắt. Cố bảo vệ, gìn giữ Quê hương, đã đem sinh mạng đổi lấy hai chữ “Tự Do”.
Hồ Xuân Đạt một phi công trẻ của QLVNCH, đã chết vì Quê hương, Dân tộc. Là người thanh niên Biên Hòa, lớn lên trên dãy giang sơn hoa gấm thân yêu hình chữ “S”, một đất nước hiền hòa đầy tình Dân tộc được dựng xây bằng xương máu của các bậc tiền nhân bốn ngàn năm Văn hiến, sẽ mãi mãi làm trang sử QLVNCH đời đời sống dậy và người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ chết.
Xin chân thành biết ơn những anh em Thương Phế Binh VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho Quê hương, cho chúng tôi còn được nguyên vẹn.
Xin chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì Quốc nạn 30/04/1975 và những người ngã gục trong lao tù Cộng sản. Những Anh Hùng Bất Tử trong dòng lịch sử Việt Nam.
Hoàng Ánh Nguyệt
(San Jose 2015)
 
 


TRỞ LẠI SÀI MÔN THƠ DƯƠNG QUÂN





Image result for CÁNH CỔNG GỖ





TRỞ LẠI SÀI MÔN

Đầu năm trở lại Sài Môn
Thấy ai đang đứng giữa vườn lá hoa

Mừng rằng: Có phải người xưa?
Má hồng còn thắm những mùa hoa niên
Dường như có chút muộn phiền?
Một trời thơ chở tóc huyền tung bay.

Mời nhau một chén rượu đầy
Long lanh mắt ngọc, men say ý nồng
Rượu vào, thơ bỗng bâng khuâng
Bài ca tái ngộ gieo vần véo von.

Lá hoa rực rỡ Sài Môn
Xui lòng thi khách chập chờn giấc xuân.

DƯƠNG QUÂN
 
 
 

GOOGLE BIẾT TẤT CẢ

Google biết tất cả những gì bạn làm trên Internet?

Đã bao giờ bạn vô tình bắt gặp một quảng cáo rất ‘liên quan’ đến nhu cầu của mình khi đang lướt web? Và điều đó không chỉ vô tình xảy ra đôi ba lần? Không có phép màu gì đâu, chẳng qua là Google biết rất rõ về bạn.

Những gì bạn tìm kiếm qua google, những bức thư gửi bằng Gmail hay video xem trên youtube, tất cả đều tạo điều kiện cho Google thu thập thông tin về bạn. Nhưng đừng lo, họ dùng chúng vào mục đích có lợi cho đôi bên.

Infographic sau đây cho ta biết cách mà Google tìm hiểu về chúng ta thông qua những phần mềm, dịch vụ của họ và cả những dự án đào sâu vào thông tin khách hàng hơn trong tương lai. Liệu sự riêng tư sẽ trở thành một món hàng xa xỉ trong tương lai gần?

[Infographic] google thau hieu ban den dau.



Friday, November 27, 2015

BÀ CŐ CƯỜI THOẢI MÁI

BÀ CỐ NGUYỆT BẾ CHÍT CARDENAS

THANKSGIVING 2015






XUÔI GIA CỦA CON TRAI DANIEL


THANKSGIVING 2015



THƯ THĂM BẠN THƠ DƯƠNG QUÂN









THƯ THĂM BẠN
(Tặng Nguyễn Thế Sanh - CH6,VA)


Ta nghe người ở trên Đông Bắc
Từ ngày mất nước chạy sang đây
Đành lòng vứt bỏ bằng Cao Học
Chấp nhận gian nan để "kéo cày"

Phước đức Ông Bà còn để lại
Kiếm ăn đắp đổi cũng qua ngày
Bạn bè dăm đứa thân quen cũ
Tản lạc phương trời chẳng gặp ai.

Ngày tháng qua nhanh, giờ hóa lão
Tang bồng trót gởi áng mây bay
Nhiều khi nhớ lại thời niên thiếu
Thầm tiếc cho đời, lỡ chí trai.

Ta ở Miền Nam nhiều nắng hạ
Lắm cơn bão biển thổi vào đây
Ta nghe rung chuyển trời tâm sự
Như trận cuồng phong cứ kéo dài.

Ta nghe từng mảnh đời tung vỡ
Tan tác vùi trong đám cỏ cây
Ta nhặt những tấm tình rơi rớt
Làm thơ đem kể chuyện vơi đầy.

Giờ ta đi đứng không còn vững
Bệnh hoạn theo nhau tiếp đọa đày
Muốn đến thăm người, nhưng thật khó
Nhớ nhau viết vội lá thư này.

***

Thư bất tận ngôn!
Xin chúc bạn:
Ráng mà gầy dựng chút tương lai.

DƯƠNG QUÂN
 
 
 

Wednesday, November 25, 2015

VỀ THĂM CHỊ THƠ DƯƠNG QUÂN








Về Thăm Chị

Mai em sẽ trở về thăm chị
Đón chuyến xe chiều chắc khách thưa
Mải miết phong trần quên tỉnh lỵ
Quê nhà biết có vẹn như xưa

Nhà chị hàng cau xõa tóc buồn
Thẫn thờ nghe nắng mỗi hoàng hôn
Trên bờ ao cá, hoa rơi trắng
Sau bóng tre xanh bướm chập chờn

Chị thường tưới nước chăm vườn cải
Bóng áo nâu chiều chen lá xanh
Ba lá cải lên, ngồng chị ngắt (*)
Để ngày tháng được sống bên anh

Gió sương gội mãi bờ vai yếu
Chiếc áo mùa đi rách tả tơi
Chị vá dùm cho em thật khéo
Kẻo cô gái ấy, thấy em...cười

Chuyến về thăm chị đầu năm trước
Em nhớ có lần ra giếng chơi
Cô ấy quang thùng ra gánh nước
Nhìn nhau mà chẳng nói - Chị ơi !

Mai em sẽ trở về thăm chị
Đón chuyến xe chiều chắc khách thưa
Vẫn trắng tay em, không hành lý
Vườn nhà, giếng cũ ... có như xưa ?

Dương Quân, 1960

(*) Ca dao: Cải lên ba lá ngắt ngồng.




 

NGÀN NĂM MẤT RỒI THƠ HOÀNG ÁNH NGUYỆT

 
 
 



CHÁU NỘI MIMI & CHÁU NỘI RỂ

2015
 
 
NATALIE & PRECIADO
 
 
 
 
 
 

BÀ CỐ


BÀ CỐ & CHẮT GABRIEL 2015

CHÁU NỘI RỂ RICKY & CHÁU CHẮT CARDENAS 2014


 

Tuesday, November 24, 2015

LY BÔI THƠ DƯƠNG QUÂN





Image result for BẠN BÈ XẢ GIAO




LY BÔI

  Xin mời bạn!
Hãy cùng ta quyết đấu
Chén rượu này nhất định sẽ cưa hai
Nửa phần ta, uống cho nhòe thế sự
Nửa của người, tàn cuộc để chia tay.

Ta chẳng còn chi
Chỉ còn tình bạn
Gặp nhau đây giữa giông bão cuộc đời
Chưa kịp vui, lòng bỗng buồn vô hạn
Khi nhìn nhau, đầu bạc trắng như vôi.

Sức đã kiệt, nên rượu mừng thấy đắng
Nhớ ngày xưa, ta từng uống hũ chìm
Sao bây giờ chân run, môi tái mặn
Có lẽ nào máu sắp nghẽn về tim?

Hỏi sự nghiệp?
Ta còn vay nợ nước
Một đời trai vô dụng, trả chưa xong
Ta vẫn đi dưới hai vầng nhật nguyệt
Mong một ngày ngựa đá vượt qua sông.

Hỏi kinh sử?
Ngàn pho ta đã thuộc
Thánh hiền xưa không dạy cảnh tương tàn
Dẫu đời nay nhiều lọc lừa gian dối
Rượu hết rồi. Tình bạn vẫn chứa chan.

DƯƠNG QUÂN
 
 
 

HỎI LẠI NGƯỜI THƯƠNG THƠ DƯƠNG QUÂN



Hỏi Lại Người Thương


EMMUATHU


                                                                    Em của ta
                                          Hay là của ai?

 

Mà sao chờ đợi tháng năm dài
Mà sao ngăn cách người đôi ngã
Chỉ gặp trong từng giấc mộng say.
 
Em của ta
Hay là của ai?
Của ta, sao vẫn khát khao hoài
Của ta, sao dẫy đầy thương nhớ
Sao chẳng bao giờ được nắm tay.
 
Em của ta
Hay là của ai?
Sao còn vương vấn với bao người
Sao còn ngơ ngác tìm tri kỷ
Sao vẫn đong đưa chuyện ngọt bùi.
 
Ta chẳng nghi ngờ em khác chi
Nhưng nghe ađu nhói lúc đêm về
Ở phương trời đó, ai tìm đến
Đôi bóng mơ hồ sương tuyết che
 
Ta chẳng nghi ngờ em thủy chung
Nhưng nghe đàn rớt sợi tơ chùng
Có ai hò hẹn, ai đưa đón
Mắt biếc, môi hôn, dậy má hồng.
 
Ta cứ dặn lòng cố phải tin
Sao nghe ray rức ngõ tâm tình
Hương nồng, tóc rối, phòng loan vắng
Ai níu trong mơ một bóng hình.
 
Ta cố dặn lòng yêu mến nhau
Dìu em qua kiếp song cơ cầu
Trong tim ta đã vì em nguyện
Thà trọn đời ta chịu dãi dầu.
 
Ta muốn sau cùng, hỏi lại em
Phải chăng Vườn Tịnh nở hoa hiền
Đồng tâm là cội tình tươi đẹp
Xin hay vì nhau vun đắp thêm.
 
DƯƠNG QUÂN

 

NỬA ĐÊM NGHE BÃO THƠ DƯƠNG QUÂN

 
 
Nửa Đêm Nghe Bão
 
 mua_bao
 
Hình như giông bão lại quay về
Gió giật từng cơn lúc nửa khuya
Tỉnh giấc bàng hoàng nghe gió hú
Bên này sao nhớ quá bên kia.
 
Nhớ thương khắc khoải từ lâu lắm
Thuở bão bùng xưa dậy đất trời
Những cánh chim bằng phiêu bạt gió
Dạn dày gian khổ khắp muôn nơi
 
Phiêu bạt về đâu, sẽ đến đâu
Mênh mông từng mảnh vỡ tinh cầu
Những vì sao rụng vào vô định
Rơi gãy gươm thiêng, rã chiến bào
 
Ta nhớ ngày xưa bão nổi lên
Non sông cuồng nộ tiếng vang rền
Lũ quân cầy sói tuồng hung hãn
Trận cuối thư hùng, bãi chiến chinh
 
Tan nát nhung y, cuối ván cờ
Gian hùng làm đảo lộn thiên cơ
Ta nghe sấm chớp gầm rung chuyển
Khơi dậy thê lương tiếng súng thù.
 
Ta nhớ những hầm chông, kẽm gai
Bao năm tù nhục, ách lưu đày
Lê thân nô dịch thời Trung Cổ
Giữa núi rừng xanh nuốt đắng cay.
 
Những bạn bè ta sức lụn tàn
Thôi đành nằm lại chốn rừng hoang
Nấm xương lưu lạc, hồn chinh khách
Vằng vặc trăng soi, ngậm tủi hờn
 
Từ đó những lần giông bão qua
Ta nghe quằn quại xác thân già
Tưởng chừng bão lớn xoay kim cổ
Nhật nguyệt bùng lên khúc hận ca.
 
Ta mong vũ bão quét tham tàn
Đem lại thanh bình cho thế gian
Trọn kiếp lưu vong hằng ước nguyện
Có ngày dân Việt hết lầm than.
 
Hỡi những hồn thiêng về báo bão
Muôn đời chính khí vẫn hiên ngang 
 
Dương Quân