TRĂNG VIỄN XỨ (HOÀNG ÁNH NGUYỆT

TRĂNG VIỄN XỨ

Trăng treo ảo ảnh biên đình

Trăng soi lữ khách độc hành viễn du

Trăng thề hẹn bến tương tư

Dẫu tàn phai vẫn thiên thu đợi người

(Dương Quân)


Cám ơn các thân hữu đã ghé vào ngôi nhà đơn sơ của HOÀNG ÁNH NGUYỆT






Monday, March 24, 2025

BUỒN SỐ PHẬN - THƠ HOÀNG ÁNH NGUYỆT

BUỒN SỐ PHẬN

BUỒN SỐ PHẬN

 

Tạo hoá gieo chi số phận người 

Sao dời, vật đổi mãi không vui

Lắm phen ôm nỗi buồn sâu kín

Chua xót riêng mang chẳng trách ai

 

Nhiều đêm thức trắng suốt canh dài

Nghĩ đến bao điều sao đắng cay

Tự hỏi bến bờ nào hạnh phúc

Âm thầm than trách số không may

 

Sẽ cố quên đi những muộn phiền

Cho tâm phơi phới, sống an nhiên

Nhân sinh tựa bóng câu qua cửa

Xin học theo Tam Bảo Phật truyền

 

Nhiều khi muốn thoát nghiệp cho xong

Thoát để hết vương những bận lòng

Chán cảnh phù du đời giả tạm

Cho hồn thanh thản với hư không

 

Sẽ cố quên đi những đổi thay

Quên bao phiền muộn thế gian này

Và đây có phải là lần cuối

Cực Lạc lối về ở cạnh đây.

 

Hoàng Ánh Nguyệt

Friday, March 21, 2025

THƯƠNG TIẾC NGƯỜI PHI CÔNG TRẺ - HOÀNG ÁNH NGUYỆT

 


phicong
        Cuộc chiến tranh Việt Nam đã khép lại 40 năm qua, nhưng những dư âm tang thương từ “Tháng Tư Đen” vẫn còn là nỗi đau vang vọng trong lòng chúng ta, trong lòng từng gia đình, nhất là những gia đình có những người thân yêu đã một thời khoác áo kaki…
   Gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Anh, em trai hầu hết là quân nhân. Chồng tôi, Hoàng Ngọc Thái Đại Úy Công Binh, anh Hai Thiếu Tá Pháo Binh, anh Ba Chiến Tranh Tâm Lý, em thứ Năm Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, em thứ Sáu Trung Sĩ Pháo Binh, và em thứ Bảy Trung Úy Không Quân. Tất cả những quân nhân trong gia đình đã chiến đấu hào hùng vì lý tưởng, chính nghĩa Quốc Gia, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho một Tổ Quốc Tự Do toàn vẹn.
    Năm 1967, Em tôi, Hồ Xuân Đạt, khi vừa đậu xong bằng tú tài II, mặc dù vẫn được hoãn dich vì lý do học vấn, vẫn tình nguyện lên đường theo tiếng gọi của non sông. Em đã xếp áo thư sinh, Từ giã học đường, gia đình, bạn bè…gởi lại sau lưng những kỷ niệm, những ước mơ thật đẹp, thật hồn nhiên của tuổi mới lớn.
   Năm 1968, sau khi tốt nghiệp trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, em được chọn vào ngành Không Quân và được gửi đi Hoa Kỳ thụ huấn khóa đào tạo phi công trực thăng (Helicopter) tại tiểu bang Texas Hoa Kỳ.
   Năm 1970, khi tốt nghiệp em về lại Việt Nam, phục vụ tại phi trường Biên Hòa thuộc Sư Đoàn III Không Quân QLVNCH. Ngay chính nơi chôn nhau cắt rún của mình.
phicong1
Bằng Lái Máy Bay
    Hai năm sau, vì nhu cầu chiến trường, em nhận lệnh thuyên chuyển ra vùng I chiến thuật, công tác tại phi trường Đà Nẵng rất gần với đơn vị của chồng tôi. Khi ấy, chồng tôi, đại úy Hoàng Ngọc Thái, đại đội trưởng đại đội Biệt Lập 127 Cầu Nổi.
 Hàng tuần vào những ngày nghỉ, em hay về nhà tôi chơi trong khu cư xá Phước Tường Đà Nẵng. Chị em có nhiều dịp gần gũi nhau hơn. Em hay kể cho tôi nghe về những chuyến bay tác chiến, những phi vụ tiếp tế và tải thương tại chiến trường về đêm đầy những hiểm nguy mà em tham dự. Về những người lính can đảm đã anh dũng chiến đấu, đã hy sinh bỏ mình cho tổ quốc.
Chiến tranh vẫn tiếp diễn và em tôi, vẫn hằng đêm thực hiện những phi vụ hiểm nguy để yểm trợ, sát cánh cùng chiến hữu các đơn vị để chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.


phicong2
   Tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Tin tức địch quân sắp chiếm Đà Nẵng làm dân chúng xôn xao, hỗn loạn tìm đường thoát chạy. Trong khu cư xá sĩ quan của Liên Đoàn 8 Công Binh, tôi không làm sao liên lạc được với chồng vì anh đang phải cấm trại tại đơn vị. Vừa lo lắng cho chồng, vừa lo cho Đạt em tôi, vừa lo cho chính bản thân mình và các con. Sau này nghĩ lại, thời gian ấy thật sự đáng sợ và kinh khủng nhất trong đời tôi.
   Bỗng nhiên một buổi sáng trước ngày Đà Nẵng thất thủ, Đạt lái trực thăng đáp xuống khoảng sân rộng trước nhà tôi ở khu cư xá sĩ quan Công Binh Phước Tường. Khi bước vào nhà gặp tôi, trông em có vẻ căng thẳng và lo lắng. Em nói “Chị và các cháu chuẩn bi sẵn sàng. Em sẽ trở lại đón vào phi trường tìm đường về Sàigòn càng sớm càng tốt”.  Nói xong, em quay lưng bước vội về chiếc trực thăng vẫn còn đang nổ máy ngoài sân. Trước khi cất cánh, em nhìn tôi rồi gượng nở nụ cười qua khung cửa gió của con tàu.. Tôi không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Đạt. Cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nụ cười của em tôi. Một nụ cười buồn, rất buồn. Bởi, em chẳng bao giờ trở lại đón tôi như lời đã hứa.
   Ngày 29/03/1975 Đà Nẵng thất thủ.
   Ngày 05/05/1975 với nhiều vất vả, khổ cực, tôi một mình dìu dắt bốn đứa con nheo nhóc từ Đà Nẵng về nhà mẹ ở Sàigòn. Về đến nhà Mẹ thì mới hay Thái, ông xã tôi,  đã có mặt ở nhà Mẹ cả tháng, vì nghĩ rằng chú các cháu ( trung uý phi công Hoàng Ngọc Thịnh lái A37 không Quân QLVNCH) đưa  vợ con vào phi trường Đà Nẵng về Sài Gòn trước rồi, nên trong lúc thất thủ anh cũng vất vả tìm cách về Sài Gòn, anh có ngờ đâu vợ con anh còn kẹt lại Đà Nẵng. Bỏ ăn, bỏ ngủ với thân hình tiều tụy, vì nhớ thương vợ con, anh đã không từ một xác trôi nổi nào được tấp vào bất cứ bãi biển, bến tàu nào anh cũng tìm đến nhìn mặt xem có phải vợ con mình không, anh lang thang khắp nơi như người mất hồn.Tôi cũng không gặp được anh vì anh đã đi ngược ra Đà Nẵng tìm vợ con sau một tháng trời mất liên lạc. Giữa đường anh bị bắt, bị bịt mắt còng tay ra sau lưng, bị dẫn độ đi ngày đêm trong rừng sâu, và từ đó anh bặt tăm, một lần nữa tôi lại đi tìm chồng, không biết địch có để cho anh sống hay chúng đã giết anh rồi…Nhưng may mắn anh còn sống.  Tôi đã gặp anh và anh đang bị tù mãi tận trong núi Kỳ Sơn Quãng Nam…
        Ngày tháng trôi qua cả nhà tôi lại tiếp tục đi tìm em trai Đạt, hết trại tập trung này đến trại cải tạo kia, vẫn không nơi nào có tên em, cứ tưởng Đạt bay đi được ra khỏi Việt Nam và đang tị nạn ở Hoa Kỳ, Canada hay một nước nào đó trên thế giới, không ngờ đến tháng  11/1975  một anh quân nhân VNCH cùng đi trên chuyến bay định mệnh, sau khi máy bay bị bắn rớt, anh bị bắt đi tù gần 8 tháng về kể lại:
        Máy bay cất cánh vội vàng với số lượng quá tải, cũng cố cất cánh bay cao rời khỏi phi trường Đà Nẵng với bao nhiêu người trên chuyến bay định mệnh trong những giờ phút mà đạn pháo quân thù bay ra xối xả, Đạt có ngờ đâu đó là phi vụ cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…
        Khi phi cơ bay qua vùng Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định thì bị một loạt mưa đạn AK của địch từ phía dưới bắn lên nhắm ngay buồng lái, Đạt bị trúng thương, người phi công nữa vào thay cũng bị bắn, trong lúc Đạt bị bắn trọng thương anh lính đã chăm sóc, Đạt biết mình không thể sống, nên đọc địa chỉ nhờ nhắn tin về nhà, cả hai phi công đều tử nạn, chiếc trực thăng không người lái, bay chúi xuống ruộng, sát chân núi. Những người trên chuyến bay còn sống đã bị địch bắt…
        Vẫn giữ lời, sau khi ra tù anh quân nhân tốt bụng, đã tìm đến tận nhà báo tin về chiếc phi cơ của Đạt bị địch bắn và rơi xuống vùng Bồng Sơn (Bình Định) ngày 27/03/1975 như tôi đã kể trên. Và chỉ rõ địa điểm máy bay lâm nạn.
         Quá bất ngờ lẫn đau sót và vô cùng bối rối, và cũng vì anh lính vội vã về gia đình nên anh lính chỉ báo tin cho biết và đi ngay, cả nhà tôi nghe tin sét đánh, đã lặng người, không còn nghe thấy gì, không còn nhớ tên anh lính cũng như địa chỉ hay quê quán nơi anh cư ngụ…
        Theo lời anh lính chỉ đường, tôi và Má tôi đi xe đò ra Bồng Sơn, mặc dù không rành đường, nhưng khi xe chạy gần đến nơi tôi linh tính như có ai dẫn đường, tôi kêu xe ngừng lại đúng ngay địa điểm chiếc máy bay vẫn còn nằm dưới đám ruộng tuốt trong xa, gần chân núi, chỉ cần sơ ý xe chạy lướt qua, coi như không thể tìm thấy.
           Xuống xe quan sát, tôi nhìn thấy ngay nấm mộ đất dưới bờ ruộng, sát lề đường QL.I. ,không mộ bia. Hai bên đường là ruộng, xa xa mới có một căn nhà. Má và tôi tìm đến căn nhà gần nhất để hỏi thăm, cũng may mắn chính ông chủ căn nhà là một trong số những người dân ở đó chôn em tôi khi bị nạn giữa đường mà không có thân nhân… Mộ em nằm cách nhà ông khoảng 50 m. Thuộc thôn Vân Cang, Xã Hoài Đức Huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định.
        Ông chủ nhà rất tử tế, khi được biết chúng tôi đi tìm mộ người thân, ông mời Má và tôi ở lại nhà ông,vì khi tìm đến nhà ông trời cũng đã chạng vạng. Một căn nhà tường xây thật lớn, coi như ông là người khá giả nhất vùng đó, tắm rửa xong, ông mời dùng cơm, một bửa cơm thịnh soạn, thật cảm động, ông kể:
        Khi máy bay rớt ông là người đứng ra chôn cất em tôi và một phi công nữa cùng bị nạn chung trên chuyến bay này. Nhưng anh phi công đó được gia đình biết sớm nên đã di dời về quê. Đêm đó ông lại nhường phòng ngủ của ông cho hai má con tôi ngủ, cái đặt biệt nữa là cái bóp của Đạt, tôi đã nhận ra ngay vì khi em tôi du học Mỹ em mua về sử dụng tôi có biết cái bóp da có hình đầu con Ngựa được đóng nổi. Trong bóp lại còn có tấm hình em mặc bộ đồ bay, tôi mang ra và xin phép ông được nhận lại kỷ vật…Ông rất vui vẻ. Ông cho biết khi ông chôn cất em tôi ông giữ lại kỷ vật này, ông vẫn để trên đầu giường (giường hộp) của ông.
        Sáng hôm sau, Má tôi nhờ ông làm dùm tấm bia bằng gổ cắm trên mộ em tôi. Vì mộ mới nên không thể hốt cốt mang về. Và lần gặp này gia đình tôi rất mang ơn ông, mỗi khi có dịp vào Sài Gòn ông và các con ông đều ghé nhà chơi.
         Năm năm sau Má tôi trở ra Bình Định hốt cốt em về và hỏa thiêu, sau đó gửi cốt vào chùa, Đạt mất khi em mới 25 tuổi.
         Cái kỷ niệm đau thương, buồn rầu ấy cứ mãi đeo đẳng theo tôi đến tận bây giờ, trong trí tôi lúc nào cũng hình dung cái chết tức tưởi, đau đớn của em mình và trong lòng tôi như có một vết thương chưa lành hẵn…
        Bài viết này, tôi ôn lại và ghi lại những gì tôi còn nhớ, những gì tôi được biết. Tôi chỉ còn nhớ và chắc chắn là không đầy đủ chi tiết.
         Đã 40 năm qua, thời gian cứ trôi, bao kỷ niệm cay đắng vẫn còn, càng cố quên  hình ảnh đứa em thân thương đó tôi lại càng cứ nhớ, càng  yên lặng là lúc hồn tôi miên man nhớ về quá khứ, cái quá khứ đau xót mà gia đình tôi nhận lấy.
         Có nhiều kỷ niệm, kỷ niệm vui buồn, nhiều thứ để quên, nhưng nỗi đau mất mát này không thể nào phai nhạt. Đạt là đứa em gần gũi tôi nhiều nhất.
         Chiến tranh qua đi, là một nỗi đau hằn sâu vết thương lòng cho những người còn lại, sau cuộc chiến là sự mất mát tang thương, bao nhiêu người con yêu của tổ quốc đã xong nợ xương máu không trở về, bao nhiêu quả phụ chít khăn tang khi mái tóc còn xanh, trở thành góa phụ ngây thơ với nỗi buồn và sự mất mát to lớn.
         Không có người Mẹ, người vợ nào trên thế giới lại không tan nát trái tim, trước sự mất mát quá lớn này, sự ra đi vĩnh viễn của những người con, những người chồng, người cha của mình “Vị Quốc Vong Thân” ! Đã hy sinh một cách âm thầm.
        “Tổ Quốc Không Gian”, vùng mây trời mênh mông bao la đã vương giọt máu đào của em tôi, của Đạt, của những người anh hùng nghiêng cánh sắt. Cố bảo vệ, gìn giữ quê hương, đã đem sinh mạng đổi lấy hai chữ “Tự Do”.
        Hồ Xuân Đạt một phi công trẻ của QLVNCH, đã chết vì quê hương, dân tộc. Là người thanh niên Biên Hòa, lớn lên trên dãy giang sơn hoa gấm thân yêu hình chữ “S”, một đất nước hiền hòa đầy tình dân tộc được dựng xây bằng xương máu của các bậc tiền nhân bốn ngàn năm văn hiến, sẽ mãi mãi làm trang sử QLVNCH đời đời sống dậy và người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ chết.
        Xin chân thành biết ơn những anh em Thương Phế Binh VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương, cho chúng tôi còn được nguyên vẹn. 
        Xin chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì quốc nạn 30/04/1975 và những người ngã gục trong lao tù cộng sản. Những Anh Hùng Bất Tử trong dòng lịch sử Việt Nam. 

Hoàng Ánh Nguyệt


Monday, March 17, 2025

THƯƠNG KIẾP NGƯỜI - THƠ HOÀNG ÁNH NGUYỆT





THƯƠNG KIẾP NGƯỜI

Thời gian lặng lẽ hững hờ trôi
Vẫn nhớ thương ai cả kiếp người 

Đã mấy thu qua buồn khắc khoải
Còn bao đông nữa khóc đơn côi
Đường đời cách biệt không chung hướng 
Cuộc thế xoay vần chẳng trọn đôi

Tình nghĩa hằng mơ tròn ước nguyện
Ngờ đâu sông núi mãi chia phôi...

Hoàng Ánh Nguyệt


Thursday, March 13, 2025

ĐI TÌM NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ DƯƠNG QUÂN - HOÀNG ÁNH NGUYỆT

 ĐI TÌM NGƯỜI TÌNH TRONG THƠ DƯƠNG QUÂN.


love

         Bao đêm trằn trọc thao thức, tôi cố dỗ giấc ngủ, nhưng chẳng làm sao ngủ được. Cái lạnh lúc trời đất giao mùa từ Thu sang Đông làm lòng tôi ngát lên chút riêng tư ấp ủ thấp thoáng vài hình ảnh khó quên. Cuộc đời có những buồn vui bất chợt dễ thương để trở thành kỷ niệm đẹp, đều mang một ý nghĩa thiêng liêng.

Tôi hân hạnh được Dương Quân nhà thơ xứ bưởi Biên Hòa tặng 4 tập thơ:

                                     1/ Chập Chờn Cơ Mê 2004

                                     2/ Điểm Hẹn Sau Cùng 2007

                                     3/ Trên Đỉnh Nhớ 2010

                                     4/ Như Thật Như Mơ 2013.

          Hôm nay tôi muốn được viết về những điều tôi nghĩ . Đi Tìm Người Tình Trong Thơ Dương Quân.

 

         Người ta thường nói đến người tình ở nhà thơ này hay phong cách ở nhà thơ khác. Khi phê phán hoặc đồng tình. Và nói đến tình yêu thì không có tuổi và thơ tình hay càng không tính tuổi được bao giờ, mà nhất là tình yêu đối với thi nhân, nguồn đề tài bất tận, trẻ mãi, kể cả những bài thơ mà các thi nhân viết lúc đời đã vào thu. Ngay cả những nhà thơ tiền chiến, hay những nhà thơ cận đại đều có phát họa một người tình, nhiều lúc tưởng tượng, hư cấu, mượn chuyện người khác, hoặc thêu dệt.

        Vì vậy mỗi khi nhắc tới nhà thơ đó là hiện lên hình ảnh người tình trong thi văn lãng mạn với các tác giả tiêu biểu như :

 

        Nhà thơ Nguyên Sa với “Áo lụa Hà Đông

        Mặc dù đã trải qua mấy chục năm sau ngày thi Hoa hậu, để lại trong lòng Nguyên Sa lúc nào cũng mơ tưởng đến ánh mắt nụ cười của người đoạt chức Hoa hậu đầu tiên, thôi thúc ông viết bài thơ ca ngợi người đẹp kiêu sa:

 “Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông/ Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…”.

 

        Đọc bài thơ “Màu tím hoa sim”, lời thơ đã có trong tôi nỗi cảm xúc, thi phẩm bi tráng, một tác phẩm kinh điển. Đặc biệt khi nhắc đến Màu tím hoa sim ai cũng nghĩ ngay tác giả Hữu Loan. Bài thơ ấy là một huyền thoại của một mối tình buồn giữa Hữu Loan với cô học trò kém ông 16 tuổi:

 “Tóc nàng xanh xanh/ngắn chưa đầy búi…”.

         Trong giới yêu văn thơ đã nhắc nhở hơn nửa thế kỷ nay, bất tử với thời gian.

 

         Bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị” của Phạm Thiên Thư cho thấy ngày ấy trên con đường trải nắng vàng, có một chàng trai lặng lẽ theo sau cô nữ sinh tên Ngọ đi học về, với tà áo dài trắng, tay ôm cặp, mái tóc xõa ngang vai:

 “Em tan trường về/anh theo Ngọ về…

        Chàng thi sĩ đa tình. Theo ông tình yêu trong những bài thơ chỉ là kỷ niệm, kín đáo và tinh khiết, không nhuốm bụi trần, nhưng cũng đã để lại những vần thơ xót xa và lung linh mãi đến bây giờ.

 

        Hình ảnh Paris trong thơ Cung Trầm Tưởng với tượng đá, công viên, vườn Luxembourg  lá vàng rơi lả tả trong “Mùa thu Paris”: “Người em mắt nâu/ Tóc vàng sợi nhỏ”… Là một người con gái Tây phương. Hay hình ảnh nhà “Ga Lyon đèn vàng”, tuyết trắng trong bài “Chưa bao giờ buồn thế” đã hiện ra trong những màu sắc với tất cả nỗi niềm.

 

        Với nhà thơ Kiên Giang tác giả đã thương thầm nhớ trộm người con gái thướt tha với tà áo tím đã khiến ông rung động, và từ đó bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” ra đời. Mối tình học trò trong trắng, ngây thơ của chàng trai ngoại đạo, với cô gái có đạo. Một bài thơ tình đầy lãng mạn

 

         “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” Thơ của Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng với những tác phẫm viết về tình yêu tuổi trẻ. Nguyễn Tất Nhiên đã gặp cô gái người miền Bắc “Đôi mắt tròn đen như búp bê” và đã có tình cảm, thoáng nhẹ vu vơ thời trai trẻ, tuy không thành nhưng cũng đã là nguồn cảm hứng cho tác giả sáng tác nhiều bài thơ tình buồn.

 

        Trở lại thơ Dương Quân. Đêm đã khuya, ngoài kia trên bầu trời xanh thẳm đã hiện ra những vì sao lấp lánh, tôi ngồi một mình đọc thơ Dương Quân. Nhưng trời về Đông, khí trời lành lạnh. Ngọn đèn trên bàn tỏa ra một bầu ánh sáng chỉ đủ sáng chỗ tôi ngồi. Chung quanh tối, mọi thứ im lặng dày đặc. Lúc này chính là lúc xem thơ Dương Quân.

        Theo gót nhà thơ Dương Quân, tôi đi tìm Người Tình trong thơ anh, đi dần vào thế giới huyền diệu của tình yêu. Của anh chàng Đốc Sự non choẹt, xuất thân Biên Hòa, theo học trường Petrus Ký. Sau khi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh về nhận nhiệm vụ tận miền cực Nam của tổ quốc, khi mới ngoài hai mươi tuổi đầu:

 “Chân trời cuối Việt xa thăm thẳm” … “Hành trang chỉ một xách tay vừa”…

        Từ thuở ban sơ chung chuyến đò anh vướng mối tình đầu, một cô gái quê thật thà, duyên dáng, dịu dàng đã quyến rũ và làm rung động trái tim của chàng thi sĩ  đa tình với lòng non trẻ của Dương Quân.

        Tình yêu trong thơ Dương Quân, nhẹ nhàng và kín đáo, hình ảnh cô gái miệt vườn, chất phát, chèo ghe ra họp chợ. Lời thơ đã làm rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Có lẽ vì nỗi thiết tha đến nhường ấy đã đọng lại trong cõi thơ Dương Quân khi vui cũng như khi buồn đều nồng nàn tha thiết, một cô gái hiếu thảo dễ thương. Lời thơ dịu nhẹ, ngọt ngào.

        Cảnh trước mắt làm cho tình trong lòng cũng nhóm bỗng bâng khuâng. Tác giả tả cảnh cô gái quê nghèo hằng ngày:

 “Hái rau đem bán lo tiền chợ /  Mót cũi rừng thưa, nhúm bếp cơm”.

 Cha mẹ già, con muộn nên cô gái phải: “Tảo tần ngày tháng đáp công ơn”

 Tác giả cũng tỏ ra là người có tình và hiếu nghĩa:

“…Tôi dưới Tân Thành lên chợ quận/ Mua quà xin gởi biếu song thân…”

        Cuộc sống đẹp, tình người đẹp, những câu thơ là cái nhìn ấm áp yêu thương:

Từ đó tôi yêu miền cuối Việt / Yêu đôi mắt đẹp, cổ tay tròn

Áo bà ba trắng môi cười nụ / Yêu gái Cà Mau vẹn sắc son.”

(Hương Tình Cà Mau)

        Nghe giọng văn anh rụt rè tình tứ trong mối tình đầu, cũng biết mối tình đó thi sĩ chưa đạt được. Lòng anh luôn luôn mơ ước mối tình nguyên hương trinh bạch.

Đọc những câu vừa nêu trên thì không còn mang dấu vết tượng trưng siêu thực gì nữa mà vẫn nghe ngọt ngào làm sao! Phải chăng nó rạt rào ý chân thành và vẫn là dư hương kết tinh của mối tình đầu, để rồi kết luận cũng thắm thiết thủy chung. Mang một sắc thái của đồng bằng Nam bộ phù sa ngọt ngào, đầy ắp tình quê hương, dung dị, mộc mạc, chân chất, thật thà, mà vẫn đậm đà hương sắc.

        Một bài thơ viết từ năm 1967 được đăng trên báo Điện Tín và đã được Kiên Giang Hà Huy Hà cho diễn ngâm trên đài phát thanh Sài Gòn. Và cũng từ bài thơ này đã đưa tên tuổi Dương Quân vào danh sách những nhà thơ hay của miền Nam thời chiến. Một sưu tập công phu của nhóm Thư Quán Bản Thảo do Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn cùng bằng hữu sáng lập.

 

        Hình ảnh cô gái miệt vườn không trang điểm, rất đẹp, tánh ngoan hiền, giúp mẹ gánh trầu ra chợ bán:

 “Ngày ấy anh về thăm Mỹ Hội”…“Tìm em trưa nắng tan phiên chợ…”

        Ngồi kế bên em xếp liễn trầu, chợt anh nhìn thấy bàn tay gầy guộc quá, chính hình ảnh đẹp đó đã khiến tác giả yêu tha thiết:

 “ Lần đầu xao xuyến nụ hôn nhau…” Hôn lần đầu mà xao xuyến, mới vừa hôn xong đã đốt trầm hương khấn mẹ xin “ Sau này được kết nghĩa trăm năm”  Mặc dù xa mãi “Mà bóng người thương chẳng nhạt mờ.”

(Gánh Trầu Mỹ Hội)

 

        Lời thơ thật dễ thương. Bởi mối tình ở đây nhẹ nhàng quá, trong trẻo quá. Ta cảm thấy như có vườn cau, giàn trầu, bụi chuối, hoàn cảnh tự nhiên, thêm vào đó tính tình chất phát, còn gì thắm tươi hơn những thiếu nữ thôn quê. Cho nên biết bao nhiêu lần tác giả tả người đẹp với những nét dịu dàng và âu yếm.

 

        Có thi nhân chỉ tìm ý thơ trong tình yêu của một người. Trái lại trong thơ Dương Quân thấp thoáng hình ảnh không biết bao nhiêu người, bao hẹn ước ngày xưa cũng đành dang dở, mặc dù:

 “Ôi nhớ lắm! Những ngày hoa gấm cũ

        Tác giả là một người khát yêu, lòng mở sẵn để đón một tình duyên, có thể là người con gái chất phát, hay là cô gái miệt vườn, hoặc là trong giây phút tưởng tượng đôi khi yêu tiểu thư, cô nữ sinh thành thị:

Bước hẹn hò em ngập ngừng cuối phố / Hoa hoàng lan thơm ngát nẻo em về

Mà “Ba mươi năm, anh bước đời lận đận…/“Một lần đi biền biệt dấu quan hoài”… “Và hồn thơ mòn mỏi kiếp lưu vong.” (Em bên ấy)

 

        Sự gợi tình không phải chỉ do ở người con gái xinh đẹp. Theo sự tưởng tượng mà nhờ sự cảm thông của tác giả với muôn vật trong trời đất, ngọn gió thoảng qua cũng rất có tình. Gặp nhau không được, xa nhau thì bịn rịn đành “Nhắn lại người thương”:

 “Có ai thương bậu, ngỏ lời / Bậu ưng đi!-- kẻo cuộc đời tàn phai”

Chừng nào mây trắng còn bay / Qua còn nhớ bậu những ngày xa xưa.”

(Nhắn lại người thương)

 

        Ngay khi nhà thơ đi qua Chợ Đồn (Biên Hòa) cũng yêu một cô gái tâm hồn trắng trong:

 “Em xưa trong trắng tâm hồn / Tóc hương bồ kết, má hồng thắm tươi…”

(Em gái Biên Hòa)

 

        Dương Quân xuất thân từ Biên Hòa nên yêu Em gái Biên Hòa đây mới thật là mối tình man mác, nên tác giả “Đem theo hình ảnh cả đời tha phương”. Chỉ cần đọc thơ anh, cũng có thể hiểu được ít nhiều những gì anh muốn nói hoặc tâm sự.

 

        Thơ của Dương Quân đằm thắm, nguồn sống rào rạt, lòng say đắm tình yêu, niềm khát khao giao cảm với đời thật nồng nàn, trìu mến, với người tình “buổi trung niên” . Không sum họp nên hẹn đến “Điểm hẹn sau cùng”:

 “Đợi người cho đến ngàn năm nữa / Điểm hẹn sau cùng: Đỉnh Tuyết Vân.”

 

        Say đắm cảnh đời, dù mạch thơ có dẫn dắt đến đâu, tác giả không cần biết, có người đến đỉnh cao hạnh phúc, tràn ngập hân hoan vô bờ bến, có người bất hạnh ôm lấy đơn côi, cũng bởi thương muộn màng cho nên chàng tương tư:

 “ Bậu về khuất rặng trâm bầu / Qua còn đứng ngóng bên cầu ô rô…

 Cả bài thơ đượm buồn vô hạn. Tuy chỉ là nỗi buồn riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, khắp cỏ cây mây nước:

 “ Qua về khép lại mái hiên / Giăng màn nhựt nguyệt, đắp mền tương tư

(Muộn Màng)

 

        Và xin hẹn chờ kiếp sau. Nhưng dầu sao, con người mơ mộng ấy đã sống một cuộc đời rất thực ở trần gian. Có điều mỗi khi kể lại chuyện thực trong đời mình, tác giả xen vào rất nhiều chuyện mộng. Để sống những giờ thần tiên trong tưởng tượng. Mơ người thật người Tiên.Yêu công chúa Tiên Dung, trong “Bức thư tình vương giả” Mê công chúa tiền triều, trong bài thơ (Hoài cổ) Mơ làm rễ trên trời, hay những câu thơ gợi hình, khát vọng “ Trải thơ làm nệm em nằm/ giũ mây em đắp khơi trầm em xông” (Hy Vọng).

 

           Người tình xa xôi như Trăng Viễn Xứ cũng không bao giờ với tới “Tái sinh về chốn lụy phiền gặp nhau” yêu nhau đâu phải tình cờ để rồi:

 “Trăng thề hẹn bến tương tư” “Dẫu tàn phai vẫn thiên thu đợi người”.
(Trăng Viễn Xứ).

 

Anh bất chợt dang vòng tay mở rộng/ Rước em về ngự trên đỉnh dung nghi
(Phút say mê)

          Nhưng tôi thắc mắc tác giả dùng chữ Đỉnh Dung Nghi, xưa nay chưa thấy trong tình thơ, anh đã dùng từ rất riêng, không phải ngôi vị cao sang đài các, cũng không phải mái lá đơn sơ mà hiểu riêng anh dùng từ đỉnh dung nghi tượng trưng một chỗ rất đáng được tôn trọng, đáng mến đáng yêu. Những người tình nào của tác giả có yếu tố giống thì sẽ được chàng rước về ngự trên Đỉnh Dung Nghi.

 

        Mơ làm vua, em Hoàng Hậu (Trẫm và Khanh). Thơ anh giàu ý nghĩa cũng như luôn hàm súc ẩn dụ không kém phần lãng mạn và có sức hấp dẫn.

        Nhưng chuyện dầu mộng, tình bao giờ cũng thực. Và mối tình thật chan chứa trong những bài thơ. Dù chưa lăn lóc trong tình trường, đọc thơ Dương Quân bắt ta phải bồi hồi.

       

        Đó là những câu thơ thật đẹp, thanh tao, chứa đựng những xúc cảm lắng đọng, có chiều sâu, được diễn đạt giản dị mà Dương Quân đã viếtLời thơ như lắng sâu vào lòng người đọc:

Ta đã bao lần hứa với em / Từ khi nguyệt bạch rớt bên thềm

Chia nhau nhặt nửa vầng trăng vỡ / Để giữ làm tin mãi chẳng quên”.

        Có cái gì đó như chất chứa nghẹn ngào. Con người của tác giả luôn yêu, luôn quý và thấy những cái quý giá đã xa mình. Nhà thơ đã bộc lộ tình yêu của mình mà không cần dấu diếm, bao nhiêu lời tha thiết, hò hẹn:

 “Ta đã vì em phát nguyện cầu / Một mình chấp nhận hết thương đau…”
Cho câu hò hẹn chừng vô tận / Ôm nửa vầng trăng nhớ miệt mài…”.
(Muôn Thuở Tình Si)

 

         Cái đẹp của tình yêu là thế, lời thơ trong sáng, ý thơ nhẹ nhàng mà cảm động đến thế là cùng.

        Tuy nhiên, ai cũng biết tánh anh không muốn làm mất lòng ai. Tim anh luôn mở rộng đón lấy tình yêu của bốn phương trời. Thơ anh vẫn không thiếu phần tình tứ say sưa, nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, chính khát vọng yêu thương mãnh liệt này, tình yêu vẫn tươi đẹp, dù đợi:

Mười năm, rồi mười năm…” / “Em lặng lẽ qua đời

Nấm mộ vàng cỏ úa / Chập chùng bóng trăng soi…”

 Cho dù âm dương cách biệt nghìn trùng, hiểu cho ta:

Nhựt nguyệt vẫn xoay vòng / Hồn người đi phiêu bạt

Chàng theo vận nước nổi trôi: “Quyện theo hồn núi sông…”

(Người Đi)

 

         Cuối cùng người yêu của Dương Quân ngoan, hiền lành, chất phát, đầy lòng chung thủy, chờ nhau đến chết, đó là hình ảnh đẹp, tình yêu vẫn mãi tươi đẹp sáng lung linh và huyền diệu. Cõi người vẫn tin rằng, họ vẫn yêu nhau.

         Cuộc đời là những biến đổi không ngừng, gặp nhau như những giòng sông giao lưu nhưng mỗi giòng sông đi về một ngả để rồi cùng ra biển cả. Một yêu thương không thành tựu, trái ngang, nghiệt ngã.

 

        Người tình trong thơ Dương Quân qua tổng hợp trong 4 tập thơ không tìm thấy người tình kiêu sa sắc sảo mà là một thiếu nữ hiếu thảo, chân thật, chất phát, dịu hiền. Nhưng thỉnh thoảng tác giả cũng lướt qua thiếu nữ thời đại cách đây vài chục năm.

 

        Nửa thế kỷ Dương Quân làm thơ, chất chứa đặc trưng của người con gái miền Nam. Rốt cuộc những người tình của Dương Quân là như vậy. Và tình yêu trong thơ anh, dù là ở tuổi thanh xuân, tuổi trung niên hay khi đã ngã bóng, đều đắm say và nồng nàn. Dòng đời không tạo được hạnh phúc cho người. Theo bước thời gian để lại nhiều kỷ niệm.

     Hạnh phúc nhất là khi người ta có những kỷ niệm để thương yêu, ấp ủ bên lòng và cũng hạnh phúc nhất là khi người ta có quá khứ để quay lại và nhìn xem mình đã lớn được bao nhiêu. Mỗi nỗi nhớ đều sống động, êm đềm, ấm áp, hòa quyện vào nhau trong một khoảng không gian là nỗi nhớ! Và cũng nhờ vào những lời bình dị, mọi nỗi nhớ liên kết vào nhau như mắt xích đến nỗi khi ta nhắm mắt, những hình ảnh xưa cũ lại kéo về như ta đã gặp hôm qua, đã gặp hôm nay!

        Mỗi nỗi nhớ của nhà thơ đều mang âm hưởng tình nghĩa. Phải, tác giả đã nắm được những gì quá tinh tế mà con người khó bắt nhận để đưa vào thơ mình! Kể cả đất trời cũng vậy, đất quê hương, đất xứ người, đất trên muôn ngàn mảnh đất khác lạ! Nhưng để rồi một ngày ta đi xa, một ngày ta xa lánh cuộc đời…

        Thơ Dương Quân đằm thắm, như những nốt nhạc mà thanh âm réo rắc, nhịp nhàng làm câu thơ có tiết điệu đặc biệt, khiến tôi say sưa, ưa đọc, nó là những vần thơ dễ thương mà lưu luyến, cũng như ta lưu luyến đất Biên Hòa nơi quê hương của Dương Quân. Một thi nhân luôn ca ngợi tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của tác giả riêng âu yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ. Nhưng sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người sẵn có một tâm hồn tha thiết. Khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu thương, Dương Quân thỏ thẻ những lời đến dễ thương, đã đưa người đọc về cuộc đời bên trong đầy ý nhị. Để trở về với hồn thơ, trở về với những niềm tâm sự sâu lắng của nhà thơ.

        Đọc thơ tình của Dương Quân, hiểu thơ Dương Quân ta có thể đánh giá được phong cách, đánh giá được ngôn ngữ của tác giả luôn ôm ấp, ca ngợi chân dung mẫu người tình lý tưởng, hình ảnh người con gái không sắc nước hương trời, không cao sang đài các mà chỉ tìm thấy người tình mộc mạc ngoan hiền, trung hậu, đảm đang, nhẹ nhàng chung thủy. Tuy Dương Quân có đề cập đến có mơ người thật người tiên, yêu công chúa tiền triều chỉ là tưởng tượng thoáng qua. Từ những kỷ niệm tươi sáng, cho đến bao nhiêu buồn thương, bao nhiêu chán nản, bao nhiêu đau khổ vì yêu, cả cái cảnh đời giá lạnh lúc “đã xế bóng”. Nhưng dầu sao, trong vườn trần gian không còn gì, không còn hy vọng người tình nào, cho nên tác giả đi lên núi mượn mỏ thiền sư:
Am nghèo mượn mõ thiền sư / Đọc kinh cứu khổ giải trừ nghiệp căn
Tứ thời lần chuỗi ăn năn / Hạt quên hạt nhớ trần gian vô thường” 
(Thư viết ven rừng)

Cũng không được một lần nữa nhà thơ đành trở xuống miền biển vắng mời mọc:
“Mời em một chuyến rong chơi – Thăm miền biển vắng thăm người cô đơn…
Mời em thu xếp về đây – Hành trang xin nhớ chất đầy túi thơ”
(Lời Mời Của Biển)
 

        Mãi mãi Dương Quân không gần gũi Người Tình nào cả. Lời mời chân tình mộc mạc viết từ miền biển vắng, cũng chẳng có ai hưởng ứng, quá cô đơn, thất vọng, cuối cùng nhà thơ đành viết lời trăn trối. Sẽ có một ngày người ung dung nằm xuống bên bìa rừng, đành vĩnh biệt thế gian:

 “Lửa thiêu lụn nấm tro tàn… Thong dong trên chốn vĩnh hằng vô ưu”…

 

          Đọc thơ Dương Quân thấy tâm hồn mình phong phú hơn, yêu con người và cuộc đời tha thiết hơn. Biết thêm một Dương Quân thủy chung, nhân hậu.

        Hôm nay nhân dịp sinh nhật anh Dương Quân (tháng 02 DL), tôi hoàn tất bài viết này như một món quà để kính tặng anh Dương Quân nhà thơ xứ bưởi. Xin cầu chúc anh Dương Quân sống vui khỏe để tiếp tục sáng tác thơ cho đời, cũng như tiếp tục tìm trường phái thơ cho riêng mình, để không còn những đêm trăng ngồi độc ẩm mà buồn cho cuộc đời, buồn cho thế sự.

 

Hoàng Ánh Nguyệt

(Đông Hàn Giáp Ngọ 2014)